24/02/2023

 Ngày 22/2, tham dự tại hội nghị lấy ý kiến góp ý Dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) do Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố tổ chức, Hội Luật gia thành phố đã có bài tham luận làm rõ nhiều vấn đề, trong đó trọng tâm là đóng góp ý kiến lĩnh vực đất đai và Hộ gia đình.

Vấn đề thứ nhất: Về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận và các thủ tục hành chính, dữ liệu thông tin đất đai theo dự thảo thì tại khoản 4, Điều 143. Nguyên tắc, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người. Ngược lại, nếu giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ tên của một người thì được cấp đổi sang giấy chứng nhận có ghi họ tên của cả vợ chồng khi có yêu cầu.

Trong thực tiễn khi thực hiện Luật đất đai 2013 phát sinh những bất cập, gây hậu quả pháp lý tranh kiện khi vợ hoặc chồng, hoặc của thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất không được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị các đại diện hợp pháp cố tình vi phạm lợi ích của các thành viên và dẫn đến tranh khởi kiện tại Tòa án các cấp khi giải quyết tranh chấp đất đai giữa vợ chồng khi ly hôn, tranh chấp giữa các thành viên trong hộ gia đình. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự liên quan đến đất đai, cơ quan tố tụng, cơ quan thẩm quyền chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản luôn xem xét dựa vào các Luật có liên quan chính sách đất đai như Bộ Luật dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật công chứng 2014 và Luật bình đẳng giới 2020… để giải quyết bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên là vợ, chồng, hộ gia đình về vấn đề sở hữu chung. Do vậy, việc giữ nguyên khoản 4 Điều 98 thay bằng khoản 4 Điều 143 dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) không làm ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp vợ chồng và các thành viên mà còn góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vấn đề thứ hai: Hộ gia đình sử dụng đất tại khoản 2 Điều 5 Luật Đất đai (sửa đổi) thì 3 yếu tố để xác định thành viên hộ gia đình, đó là: Một là các thành viên trong hộ gia đình có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Để xác định quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng giữa các thành viên trong hộ gia đình thì cần căn cứ vào Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn; quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có chung dòng máu; quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng trong việc chăm sóc và cung cấp những nhu cầu thiết yếu để duy trì và đảm bảo cuộc sống. Trường hợp hôn nhân thực tế các cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn mà sống nhau như vợ chồng trước ngày 03/1/1987 thì được công nhận là quan hệ vợ chồng cũng được xem là thành viên của hộ gia đình. Hai là các thành viên trong hộ gia đình đang sống chung với nhau. Ba là các thành viên trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật đất đai thì đến nay thực tiễn còn hơn 12 triệu hộ gia đình cần cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cần được cấp đổi sang tên cá nhân để thực hiện quyền và nghĩa vụ liên quan. Hơn nữa, trong quan hệ chủ thể của Bộ Luật dân sự Hộ gia đình và tổ hợp tác xã được xem là chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự và không có tư cách pháp nhân và khác biệt với cá nhân và tổ chức sử dụng đất. Đất nước ta trải qua thời kỳ chế độ phong kiến, chế độ phụ hệ, vợ phải về nhà chồng sau khi kết hôn để sống chung, người vợ là thành viên hộ gia đình quản lý và sử dụng đất tạo ra giá trị của cải vật chất nuôi dưỡng gia đình mà chưa được ghi tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (có cùng sống chung nhưng không đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), người vợ sinh con cho gia đình chồng, mang họ của chồng và cũng là người trực tiếp sử dụng đất nên quyền và lợi ích hợp pháp đó cần phải được bảo vệ.

Hơn nữa, khi xã hội phát triển thì mặt trái các tệ nạn cùng xuất hiện, tỉ lệ ly hôn cao, phần lớn phụ nữ nhận nuôi con sau ly hôn, quyền lợi hợp pháp của con cái sau ly hôn cần được bảo vệ, nếu pháp luật quan tâm không đúng mức thì sẽ mất công bằng và sẽ tạo ra hệ lụy cho xã hội và hình thành một bộ phận yếu thế. Mặt khác, quá trình đô thị hóa phát triển kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu dân số, một số hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất bị tác động bởi công việc quy hoạch chuyển đổi từ tỉnh lên thành phố, từ huyện lên quận và từ xã lên phường. hoặc tách khẩu, nhập khẩu… Quyền sử dụng đất của hộ gia đình được phân chia cho các thành viên trong hộ để thành viên đó độc lập thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Lần sửa đổi Luật đất đai này, Quốc hội đã tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến Hộ gia đình. Đặc biệt chú trọng tách bạch phần sở hữu chung quyền sử dụng đất trong Hộ gia đình để các thành viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 28. Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và theo Điều 40. Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Cho đến nay, việc thực hiện chính sách đất đai liên quan đến Hộ gia đình đối với các thành viên sử dụng đất, người được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất… quyền và lợi ích cần được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, từ những nhận định, phân tích đánh giá trên và thực tế cuộc sống hiện hữu đang cần thiết có những điều Luật để giải quyết khi Hộ gia đình sử dụng đất vẫn là đối tượng quan tâm của Luật đất đai (sửa đổi) nhằm mục tiêu nâng cao giá trị quyền sử dụng đất của Hộ gia đình.

Hội Luật gia thành phố Đà Nẵng

 

Trực tuyến: 24
Tổng: 12177501

 

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ UỶ BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Trưởng Ban biên tập: Bà Tăng Hoàng Hôn Thắm, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố
Địa chỉ: 10-12 Trần Phú, P.Thạch Thang, Q.Hải Châu, TP Đà Nẵng
Điện thoại: 0236.3821.158 - 0236.3822.196
Email: mttqvn@danang.gov.vn
Giấy phép số: 795/GP-STTTT, ngày 15/8/2017 của Sở Thông tin và Truyền thông TP. Đà Nẵng
Ghi rõ nguồn "Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng" khi bạn phát hành thông tin từ website này

Chung nhan Tin Nhiem Mang